Xã Hội Học

 

CÂU 1: ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU





ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

Cuộc tranh luận về xác định đối tượng nghiên cứu của xã hội học đã diễn ra từ lâu và vẫn đang tiếp diễn. Chung quy lại có các hướng tiếp cận cơ bản sau xoay quanh việc xác định đối tượng của xã hội học. Hướng tiếp cận “vĩ mổ”, hướng tiếp cận vị mô”, hướng tiếp cận tổng hợp.

Hướng tiếp cận “vĩ mô” cho rằng đối tượng nghiên cứu của xã hội học là hệ thống xã hội nói chung là “mặt” xã hội, “cái xã hội” của hệ thống xã hội (vòng tròn nhỏ đồng tâm với vòng tròn xã hội).

Hướng tiếp cận “vị mổ” lại cho rằng đối tượng nghiên cứu của xã hội học hoặc là: hành vi, hành động xã hội; hoặc là: quy luật của sự phát sinh, biến đổi và phát triển mối quan hệ giữa con người và xã hội.

Kế thừa những nội dung khoa học trong quan điểm của hai hướng tiếp cận “vĩ mô”, “vi mô”; xuất phát từ thực tế nhu cầu nghiên cứu xã hội học phục vụ quản lý, tổ chức, điều hành xã hội; hướng tiếp cận “tổng hợp” cho rằng đối tượng nghiên cứu của xã hội học - khoa học xã hội, có tính liên ngành rộng, đề cao tính thực chứng trong quá trình nghiên cứu là:

- Cơ cấu của hệ thống xã hội bao gồm các thành phần cơ bản: nhóm xã hội, vị thế xã hội, vai trò xã hội, thiết chế xã hội, mạng lưới xã hội, các phân hệ của cơ cấu xã hội, các sự kiện hiện tượng và các quá trình xã hội... tồn tại khách quan trong hệ thống xã hội hiện thực.

- Quy luật, tính quy luật hình thành, biến đổi của các quan hệ tương tác xã hội chủ yếu là quan hệ tương tác giữa các thành phần cơ bản của cơ cấu xã hội, quan hệ tương tác giữa cá nhân với xã hội và thực trạng của các quan hệ tương tác xã hội này.

- Quy luật, tính quy luật của các hành vi, hành động xã hội (nguồn gốc, động cơ mục đích, cơ chế vận hành...).

Tóm lại: Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của xã hội học là tất cả những gì thuộc về cơ cấu của hệ thống xã hội, hệ thống các quan hệ tương tác xã hội, các hành vi, hành động của các thành viên xã hội (cá nhân, nhóm xã hội, các tổ chức xã hội) nhằm xác định nguồn gốc, thực trạng, xu hướng biến đổi của chúng để trực tiếp đáp ứng nhu cầu của nhận thức khoa học về xã hội, quản lý, kiểm soát xã hội.


CÂU 2: CƠ ĐỘNG XÃ HỘI

a. Định nghĩa cơ động xã hội.

  Tính cơ động xã hội là tính linh hoạt của các cá nhân và các nhóm xã hội trong kết cấu xã hội. Nó là sự chuyển đổi vị trí của một cá nhân hay một nhóm xã hội sang một vị trí khác cùng một tầng hay khác tầng trong bậc thang giá trị xã hội. Như vậy, khái niệm tính cơ động xã hội chỉ hiện tượng những người vốn thuộc nhóm xã hội này chuyển sang nhóm xã hội khác, thay đổi nghề hoặc địa vị xã hội của mình.

b. Các loại cơ động xã hội.

Cơ động xã hội theo “chiều ngang”: Là sự chuyển đổi vị trí của một cá nhân hay một nhóm xã hội sang một vị trí xã hội khác cùng nằm trên một cấp độ xã hội như nhau hay có cùng một giá trị (ở đây, mới có sự thay đổi về mặt nhiệm vụ, vai trò mà chưa có sự thay đổi về mặt vị thế). Ví dụ: Một cán bộ chiến sĩ được điều động công tác từ nơi này sang nơi khác nhưng vẫn làm cùng một nghề nghiệp và có một thu nhập tương tự.

Cơ động xã hội theo dọc: Là sự chuyển dịch vị trí của cá nhân hay nhóm xã hội sang một vị trí xã hội khác không cùng một tầng với họ, có sự cao hơn hay thấp hơn về thang giá trị. Sự cơ động theo chiều dọc nhấn mạnh đến sự vận động về chất lượng của cá nhân trong các nhóm xã hội, có liên quan đến sự thăng tiến hay giảm sút vị thế xã hội của mỗi người. Ví dụ: Một cán bộ chiến sĩ có tài năng đức độ, và sự nỗ lực bản thân được đề bạt giữ chức vụ trưởng phòng. Ngược lại, một người đang giữ chức vụ trưởng phòng nhưng do năng lực yếu kém, sa sút về phẩm chất đạo đức có thế thôi giữ chức trưởng phòng hoặc cho thôi việc.

Cơ động xã hội theo cơ cấu: Là sự thay đổi địa vị của một người do kết quả của những thay đổi trong cơ cấu kinh tế. Loại cơ động theo cơ cấu này xuất hiện nhiều vào những thời kỳ cách mạng kỹ thuật, cách mạng trong cơ cấu kinh tế hay cách mạng chính trị.

c. Những nhân tố ảnh hưởng đến cơ động xã hội.

Nguồn gốc giai cấp - xã hội:

Bao gồm các yếu tố thành phần xuất thân, hoàn cảnh gia đình, địa vị xã hội của cha mẹ... có tác động rất quan trọng và cơ bản tới sự phát triển và tiến bộ của mỗi cá nhân. Nếu cha mẹ của một người nào đó có địa vị xã hội càng cao thì người đó có điều kiện để thăng tiến và ngược lại. Những người có cha mẹ ở địa vị xã hội cao sẽ có nhiều sự thuận lợi nâng đỡ, ngược lại những người ở tầng lớp xã hội có địa vị thấp lại thiếu những điều kiện để vươn lên. Ở những gia đình có điều kiện hoàn cảnh kinh tế khó khăn, eo hẹp hậu như rất ít cơ hội tạo khả năng thăng tiến cho con cái so với những gia đình khá giả. Hoặc gia đình thuộc các giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, như gia đình công nhân, gia đình nông dân, gia đình tri thức cũng có những nhận thức, quan niệm khác nhau trong việc cản trở hay thúc đẩy sự tiến bộ của con cái họ.

Trình độ học vấn:

Trình độ học vấn cũng là một trong những yếu tố tác động đến tính cơ động xã hội. Thực tế thấy rằng, trình độ học vấn của một người nào đó càng cao thì triển vọng đi lên của cá nhân đó càng tốt. Ngược lại nếu học vấn của người nào đó càng thấp thì sự thăng tiến càng khó khăn. Trong cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và cơ chế kinh tế thị trường, khả năng cơ động xã hội của mỗi người phụ thuộc rất lớn và vấn cao. Để thay đổi địa vị xã hội, cải thiện nội dung và tính chất lao động - nghề nghiệp của mình, bên cạnh nguồn gốc giai cấp, các cá nhân chỉ có thể thu hiện được bằng con đường học vấn.

Lứa tuổi và thâm niên nghề nghiệp:

Yếu tố này cũng có ảnh hưởng nhất định đến tính cơ động xã hội. Trong thực tế, các dấu hiệu này gắn liền với trình độ chuyên môn và trình độ học vấn của người lao động với kinh nghiệm, kiến thức và vị trí xã hội của họ.

Giới tính:

Giới tính cũng là yếu tố thường ảnh hưởng và tác động đến tính cơ động xã hội của các cá nhân. Cho đến nay, tại nhiều nước và khu vực trên thế giới vẫn còn tình trạng bất bình đẳng xã hội về giới tính: đó là sự khác biệt giữa nam và nữ về học vấn, chuyên môn, mức lương, tính chất lao động hay vị trí xã hội... theo hướng có lợi cho nam giới. Vì thế nhìn chung, tính cơ động xã hội của nam giới thường cao hơn nữ giới. Ngoài ra cũng có sự khác biệt giới tính mang tính tự nhiên cũng như tính xã hội tác động tới tính cơ động xã hội của nam và nữ, đó là những thiên chức, là sức khỏe ý chí, nghị lực vươn lên, là tâm lí xã hội hay tập quán xã hội.

Điều kiện sống (nơi cư trú):

Thực tế cho thấy, nơi cư trú gắn với nó là điều kiện sống của các tầng lớp dân cư có ảnh hưởng đáng kể tới tính cơ động xã hội. Những người sống ở đô thị có điều kiện thăng tiến hơn ở nông thôn và miền núi, bởi vì điều kiện sống ở thành phố đòi hỏi con người phải năng động hơn, linh hoạt hơn, có khả năng to lớn hơn trong việc lựa chọn các hình thức lao động - nghề nghiệp hay tiếp thu học vấn cao. Những người ở trung tâm kinh tế, văn hóa, các đầu mối giao thông, dịch vụ, thương mại có tính năng động xã hội cao hơn so với những người ở khu vực xa xôi hẻo lánh.

  Ngoài những yếu tố tác động đến tính cơ động xã hội kể trên còn phải kể đến một loạt các yếu tố khác như chủng tộc, dân tộc, sức khỏe ngoại hình, tuổi kết hôn, địa vị của người bạn đời, trí tuệ và lĩnh vực công danh, khả năng giao tiếp... Trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, những yếu tố tác động kể trên có thể có những vị trí và vai trò khác nhau trong sự thăng tiến hay giảm sút xã hội của cá nhân. Vì vậy, khi phân tích cần phải chỉ ra vai trò của mỗi yếu tố đối với tính cơ động xã hội của các cá nhân và nhóm xã hội.

CÂU 3: VỊ THẾ XÃ HỘI, VAI TRÒ XÃ HỘI

VỊ THẾ XÃ HỘI

Khái niệm vị thế xã hội: Vị thế xã hội là khái niệm thể hiện vị trí của một người hay một nhóm xã hội trong cơ cấu của hệ thống xã hội theo sự đánh già và thừa nhận của xã hội. Khi nói đến vị thế là nói đến vị trí, thứ bậc cao, thấp gắn với những trách nhiệm và những quyền lợi, nghĩa vụ tương ứng với từng vị trí đó. Các nhà xã hội học cho rằng, vị thế xã hội chủ yếu là sản phẩm của đời sống tinh thần, là thái độ và mức độ tôn trọng hay khinh miệt của xã hội biểu lộ ra đối với các cá nhân, nhóm xã hội. Vị thế xã hội tạo dựng quyền lực xã hội, quyết định phạm vi ảnh hưởng trong xã hội của từng người, từng nhóm xã hội.

Vị thế xã hội là khái niệm thể hiện vị trí (chỗ đứng) của một người hay một nhóm xã hội trong cơ cấu của hệ thống xã hội theo sự đánh giá và thừa nhận của xã hội.

Các nhà xã hội học cho rằng, vị thế xã hội chủ yếu là sản phẩm của đời sống tinh thần, là thái độ và mức độ tôn trọng hay khinh miệt của xã hội biểu lộ ra đổi các cá nhân, nhóm xã hội. Như vậy, nói đến vị thế là nói đến vị trí, thứ bậc cao thấp trong quan hệ so sánh với các thành viên khác trong nhóm và cộng đồng. Vị thế xã hội tạo dựng quyền lực xã hội, quyết định phạm vi ảnh hưởng trong xã hội của từng người, từng nhóm xã hội.

Các yếu tố cấu tạo nên vị thế rất phong phú như: dòng dõi, giai tầng, đẳng cấp, chủng tộc, dân tộc, sắc tộc... Của cải mang lại địa vị kinh tế cũng tham gia vào cấu thành nên địa vị của con người. Nghề nghiệp, trình độ học vấn là các nhân tố quan trọng tạo nên vị thế xã hội, chức vụ, quyền lực, đặc điểm về sinh lý (giới tính, lứa tuổi), thể chất (sắc đẹp, sức khoẻ), đặc trưng về nhân cách (ý chí dâm mạo hiểm, dám nghĩ, dám làm, khả năng giao tiếp) là các yếu tố ảnh hưởng đến vị thế xã hội. Tuy nhiên, các yếu tố trên không đứng riêng rẽ tách biệt với nhau, mà tác động lẫn nhau trong các điều kiện thời gian, hoàn cảnh khác nhau mà hình thành các vị thế khác nhau. Tuỳ theo những dấu hiệu phân tích khác nhau mà có những loại vị thế khác nhau. Dựa vào nguồn gốc tự nhiên và xã hội mà chúng ta có hai loại vị thế: Vị thế tự nhiên và vị thế giành được.

Vị thế tự nhiên: là vị thế bị chỉ định, bị gán cho bởi những thiên chức, những đặc điểm cơ bản mà cá nhân không tự kiểm soát hay mong muốn mà có. nhẹ. Ví dụ: Sinh ra đã là nam hay là nữ, da đen hay da trắng, dân tộc này hay dân tộc khác.

Vị thế đạt được: là vị thế phụ thuộc vào những đặc điểm mà trong một chừng mực nhất định, cá nhân có thể tự kiểm soát được và chiếm được trong quá trình sống. Vị thế xã hội phụ thuộc vào nỗ lực phấn đấu và sự cố gắng, nghị lực vươn lên của bản thân cùng các yếu tố khác tác động của xã hội. Trong lực lượng công an, vị thế xã hội của người sĩ quan tuỳ thuộc vào sự phấn đấu của mỗi người và phụ thuộc vào vị thế của lực lượng công an trong xã hội ở từng thời kỳ lịch sử. Ví dụ: Một sĩ quan cảnh sát qua nỗ lực phấn đấu có thể trở thành đội trưởng, quận trưởng hay giảm đốc công an...

Các nhà xã hội học cũng phân biệt vị thế thành các vị thế then chốt và không then chốt.

Vị thế then chốt: là vị thế cơ bản có vai trò quyết định đối với các vị thế khác. Nó đòi hỏi nhiệm vụ, vai trò kèm theo sao cho tương ứng.

Vị thế không then chốt: là những vị thế không giữ vai trò cơ bản, chủ đạo trong việc quy định đặc điểm và hành vi xã hội của cá nhân.

Mỗi cá nhân có nhiều vị trí xã hội khác nhau vì tham gia vào nhiều mối quan hệ xã hội khác nhau. Do đó có nhiều vị thế tương ứng, tuy nhiên vị thế then chốt luôn giữ vai trò chủ đạo. Ví dụ: Vị thế xã hội then chốt trong lực lượng Công an đó là vị trí chỉ huy các cấp.

Tóm lại, vị thế xã hội là vị trí của một cá nhân hay nhóm người trong hệ thống cấu trúc xã hội. Vị thế xã hội quy định “thế và lực” và cách ứng xử của cá nhân, nhóm người trong mối liên hệ, quan hệ với những người xung quanh. Như vậy, vị thế là một vị trí xã hội của một người hay một nhóm người trong kết cấu xã hội, được sắp xếp, thẩm định hay đánh giá của xã hội nơi người đó sinh sống. Khi nói đến vị thế là nói đến vị trí, thứ bậc cao, thấp gắn với những trách nhiệm và những quyền lợi, nghĩa vụ tương ứng với vị trí đó.

 

VAI TRÒ XÃ HỘI

Khái niệm vai trò xã hội: Vai trò xã hội là một tập hợp những khuôn mẫu tác phong và hành vi để thực hiện nhiệm vụ nhất định. Vai trò xã hội của một người có nghĩa là người đó phải đảm nhận hay thể hiện đầy đủ các hành vi, nghĩa vụ, hệ thống chuẩn mực trên cơ sở vị thế của người đó, đồng thời họ cũng nhận được những quyền lợi xã hội xứng đáng với những đóng góp của mình.

Vai trò xã hội là một tập hợp các chuẩn mực, hành vi, nghĩa vụ và quyền lợi gắn với một vị thế nhất định. Tương ứng với các vị thế sẽ có một mô hình hành vĩ được xã hội mong đợi, đó chính là vai trò của vị thế xã hội đó.

Chẳng hạn trong lực lượng công an, trong quan hệ giữa người chỉ huy và người chiến sĩ thì người chỉ huy thực hiện vai trò chỉ huy ra lệnh cho người chiến sĩ; người chiến sĩ ở vai trò bị chỉ huy và thực thi mệnh lệnh của người chỉ huy.

Định nghĩa này cho thấy, tương ứng với các vị thế sẽ có một mô hình hành vi được xã hội mong đợi chính là vai trò của vị thế xã hội đó. Vị thế của một cá nhân luôn xác định một cách khách quan với vai trò của cá nhân đó. Đồng thời vị thế của cá nhân ấy chỉ có thể được củng cố khi cá nhân đó thực hiện đúng vai trò của mình.

Mối quan hệ giữa vai trò xã hội và vị thế xã hội.

Vị thế và vai trò gắn bó mật thiết với nhau, không thể nói tới vị thế mà không nói tới vai trò và ngược lại, vai trò phụ thuộc vào vị thế. Một vị thế có nhiều vai trò. Trong mối quan hệ giữa vị thế và vai trò thì vị thế thường ổn định hơn, ít biến đổi hơn, và vai trò thì hay biến đổi hơn; sự biến đổi của vai trò phụ thuộc vào sự biến đổi của vị thế. Vị thế liên quan trực tiếp đến địa vị xã hội của một giai cấp, một tầng lớp, một thứ hạng trong xã hội; Còn vai trò liên quan đến nhân cách của một người nhất định. Nó là những yếu tố tạo ra nhân cách. Vị thế như là kết quả của sự phối hợp và áp dụng những tiêu chuẩn về giá trị đang hiện diện và thịnh hành trong xã hội. Nói tóm lại, trong cuộc sống mỗi cá nhân, nhóm, tập đoàn xã hội đứng ở vị thế nào thì sẽ phải thực hiện các vai trò khác nhau tương ứng với từng vị thế đó. Qua đó thấy được vai trò của các cá nhân, các nhóm, các tập đoàn, các tổ chức xã hội đối với sự vận động và phát triển của Đất nước.

CÂU 4: CÁC PHƯƠNG PHÁP THU THẬP THÔNG TIN TRONG NGHIÊN CỨU XÃ HỘI HỌC

Phương pháp theo nghĩa chung là cách thức đạt tới mục tiêu, là hoạt động được sắp xếp theo một trật tự nhất định.

Phương pháp luận là toàn bộ các biện pháp nghiên cứu được áp dụng trong một khoa học nào đó. Mặt khác đó là học thuyết về phương pháp nhận thức khoa học về thế giới và cải tạo thế giới.

Phương pháp xã hội học là tổng hợp một số phương pháp cụ thể từ việc lựa chọn hướng tiếp cận nghiên cứu đến phương pháp thu thập và xử lý thông tin nhằm giúp cho chúng ta cách phân tích các hiện tượng, các vấn đề xã hội một cách sâu sắc đặc biệt là trong công tác công an nói chung và điều tra xét hỏi tội phạm nói riêng, có thể chia phương pháp xã hội học thành hai cấp độ: phương pháp luận và phương pháp hệ cụ thể.

Hiện nay trong xã hội học thực nghiệm, người ta thường sử dụng các phương pháp thu thập thông tin sau:

1. Phương pháp quan sát: Quan sát là phương pháp thu thập thông tin xã hội thực nghiệm thông qua các tri giác nghe, nhìn để thu nhận thông tin về các quá trình, các hiện tượng xã hội dựa trên cơ sở đề tài, mục đích của cuộc nghiên cứu.

2. Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn là phương pháp thu thập thông tin thông qua hỏi và đáp trực tiếp giữa người đi hỏi và người được hỏi nhằm thu thập thông tin phù hợp với mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài nghiên cứu, sau đó người đi hỏi ghi vào phiếu hoặc tái tạo lại vào phiếusau khi kết thúc cuộc phỏng vấn.

3. Phương pháp ankét: Ankét là phương pháp thu thập thông tin gián tiếp qua bảng câu hỏi hay nói cách khác là qua phiếu trưng cầu ý kiến. Đây cũng là một dạng của trưng cầu ý kiến và cũng là một dạng của phỏng vấn tiêu chuẩn hoá (phỏng vấn theo bảng hỏi).

4. Phương pháp mêtríc xã hội

5. Phương pháp thực nghiệm

Các phương pháp này có ưu, khuyết điểm khác nhau. Khi điều tra không nên chỉ sử dụng một phương pháp mà nên sử dụng kết hợp các phương pháp để thu được thông tin nhiều nhất.

CÂU 5: TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG

Khái niệm: Truyền thông đại chúng là hoạt động giao tiếp, thông tin trên tính quy mô rộng lớn thông qua các phương tiện kĩ thuật truyền thông (các phương tiện truyền thông đại chúng).

“Đại chúng” ở đây là một tập hợp rất lớn gồm các cá nhân, các nhóm đa dạng về các đặc điểm chính trị, kinh tế, văn hóa... Do đó, từ một góc độ truyền thông đại chúng được hiểu là quá trình thông tin với sự đa dạng, phong phú (đại chúng) về các sự kiện, về nguồn phát thanh, về bản tin, về người nhận tin. Phạm vi tác động của truyền thông đại chúng có thể vượt qua khuôn khổ quốc gia, dân tộc, ảnh hưởng đến cả khu vực hoặc toàn cầu.

Một số đặc trưng cơ bản của truyền thông đại chúng: Hoạt động của hệ thống truyền thông đại chúng luôn luôn chịu sự tác động từ hai phía đó là các thiết chế xã hội công chúng. Vì vậy, có thể khái quát truyền thông đại chúng có một số đặc trưng cơ bản sau đây:

1. Thông tin mang tính chất đại chúng (Đối tượng gồm đa dạng các thành phần cơ cấu xã hội khác nhau).

2. Thông tin mang tính gián tiếp (được thực hiện thông qua các phương tiện kĩ thuật truyền tải).

3. Thông tin là của nhóm xã hội lớn (đây là sự giao tiếp của các nhóm xã hội lớn).

4. Quá trình truyền thông thể hiện rõ tính tập thể (Nhà truyền thông đại diện cho nhóm, chứ không phải cá nhân).

5. Quá trình thông tin có tính tổ chức, chịu sự tác động của các thiết chế xã hội (Được tiến hành bởi Ban biên tập, bộ phận kĩ thuật, bộ phận tổ chức, quản lý...).

6. Thông tin có tính chất định kỳ (Theo chủ đề, gắn liền với từng vấn đề xã hội).

7. Không có mối liên hệ ngược trực tiếp về thông tin giữa nhà truyền thông và công chúng (khó chuyển đổi vai trò giao tiếp).

8. Quá trình truyền thông luôn luôn tuân theo chuẩn mực chung (những quy định chung của quá trình truyền thông).

9. Thông tin thể hiện rõ định hướng xã hội (là phương tiện định hướng, tuyên truyền, giáo dục cơ quan quyền lực. Đây là đặc trưng quan trọng nhất).

Trong truyền thông đại chúng, việc sử dụng các phương tiện kĩ thuật để truyền tải thông tin đã chuyển giao tiếp con người thành giao tiếp đại chúng. Sự phát triển khoa học, đặc biệt là công nghệ điện tử đã dẫn tới hiện tượng đông đảo công chúng, các nhóm xã hội lớn, các cộng đồng người tham gia vào dòng truyền thông.

Chức năng của truyền thông đại chúng

Chức năng của truyền thông đại chúng chính là vai trò của nó đối với xã hội. Từ góc độ chính trị, theo Lênin truyền thông đại chúng có ba chức năng cơ bản đó là là:

- Cổ động: Phục vụ các chương trình các phong trào xã hội.

- Tuyên truyền: Phổ biến đường lối, chính sách... của Nhà nước.

- Tổ chức: Liên kết các nhóm xã hội vì những mục tiêu và lợi ích chung.

  Nhưng xét từ góc độ xã hội có thể khái quát truyền thông đại chúng có ba chức năng cơ bản: chức năng giám sát và quản lý xã hội, chức năng tư tưởng, chức năng văn hóa.

Thứ nhất, chức năng giám sát và quản lý xã hội:

Giám sát và quản lý được coi là hai mặt của một vấn đề cùng đảm bảo sự phát triển hợp lý và tích cực của xã hội. Nói cách khác truyền thông đại chúng tác động vào đời sống xã hội, thúc đẩy vận động theo mục đích đã định. Nội dung chức năng giám sát và quản lý xã hội gồm:

Giám sát sự vận hành của các tiến trình chính trị, kinh tế, xã hội, phát hiện và cảnh báo kịp thời những nguy cơ những khó khăn phức tạp ảnh hưởng đến sự phát triển chung. Sự giám sát của truyền thông đại chúng trước hết nằm vào các cơ quan, tổ chức quyền lực của bộ máy công quyền, trong hệ thống kinh tế xã hội. Truyền thông đại chúng không chỉ có vai trò như người phản biện đối với việc thực thi công vụ của cơ quan, cá nhân nằm giữ quyền lực trong xã hội, mà có ý nghĩa như một tòa án dư luận một quyền lực dân chủ của nhân dân.

Tham ra hoạch định và tổ chức thực hiện các chính sách của Nhà nước, các tổ chức xã hội trên phạm vi xã hội hay trong những lĩnh vực rộng lớn.

Trở thành diễn đàn dân chủ động viên, tổ chức cho nhân dân tham gia quản lý xã hội.

Thứ hai chức năng tư tưởng:

Chức năng tư tưởng của truyền thông đại chúng được thể hiện theo các phương hướng sau:

1. Hướng dẫn và hình thành dư luận xã hội tích cực, đúng đắn trên cơ sở thông tin nhanh chóng đầy đủ và phong phú và các sự kiện thời sự nhưng vẫn để nảy sinh trong đời sống xã hội.

2. Giáo dục chính trị tư tưởng trang bị kiến thức cần thiết làm cơ sở, điều kiện cho việc hình thành chất lượng nội dung về chính trị - tư tưởng tức là quan điểm, lập trường, thái độ chính trị - xã hội đúng đắn, toàn diện, hình thành ở con người một tình cảm tốt đẹp, ý thức tự giác sâu sắc đối với cộng đồng xã hội.

Đối với nước ta, nội dung giáo dục chính trị tư tưởng của truyền thông đại chúng bao gồm:

Một là, giáo dục một cách hệ thống những tri thức cơ sở quan trọng như triết học kinh tế chính trị thì học các học thuyết xã hội và quy luật lịch sử, các bài học mang tính quy luật trong tiến trình vận động xã hội. Đây là tri thức làm cơ sở điều kiện cho sự hình thành thế giới quan, nhân sinh khoa học, thích tính tích cực cho nhân dân.

Hai là, thông tin truyền bá và giải thích các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn để hướng dẫn điều kiện, phương pháp tổ chức thực hiện thắng lợi các đường lối, chính sách đó.

Ba là, phân tích lý giải chỉ ra bản chất đúng đắn của các vấn đề, sự kiện thời sự, hướng dẫn con đường, cách thức tiếp cận đánh giá ứng xử đối với các vấn đề sự kiện đó một cách hợp lý.

Bốn là, đấu tranh vạch trần các âm mưu luận điệu xuyên tạc, tuyên tuyên truyền vận động của các thế lực thù địch, bảo vệ và phát triển lý luận cách mạng và các học thuyết khoa học tiến bộ.

Thứ ba chức năng văn hóa:

Hoạt động truyền thông đại chúng là một phần của đời sống văn hóa xã hội hiện đại. Bản thân nó có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và phát triển nền văn hóa xã hội. Đó cũng là chức năng văn hóa của truyền thông đại chúng. Nói cách khác, chức năng văn hóa của truyền thông đại chúng là việc nâng cao trình độ hiểu biết chung cho công chúng, khẳng định và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp, hình thành và không ngừng hoàn thiện lối sống tích cực trong xã hội.

Thứ nhất, chức năng văn hóa trong truyền thông đại chúng là các hoạt động nhằm nâng cao trình độ hiểu biết về mọi mặt cho công chúng. Nó bao gồm từ việc trang bị những tri thức phổ thông có hệ thống xã hội hóa các kinh nghiệm sống truyền bá những tri thức và nền văn hóa của dân tộc bến phổ biến những kiến thức về khoa học về pháp luật, chính trị, xã hội.

Thứ hai, chức năng văn hóa trong hoạt động truyền thông đại chúng là giáo dục, phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp.

Thứ ba, chức năng văn hóa trong hoạt động truyền thông đại chúng và giáo dục xây dựng lối sống tốt đẹp cho công chúng.

Ngoài ra nếu xét từ góc độ tâm lý xã hội hay nói cách khác là giao tiếp xã hội thì truyền thông đại chúng lại có các chức năng cơ bản đó là: chức năng định hướng (thể hiện quan hệ giữa cá nhân với xã hội); chức năng phân định (thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với nhóm); chức năng tương tác (thể hiện mối quan hệ giữa cán nhân với cá nhân); chức năng tự khẳng định (thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với chính bản thân).

Nhiệm vụ của truyền thông đại chúng

Các phương tiện truyền thông đại chúng hướng đến việc hình thành dư luận xã hội về các vấn đề trong đời sống xã hội. Để thực hiện được vai trò này, hệ thống truyền thông đại chúng có các nhiệm vụ sau:

1. Làm tăng cường và phát triển dân chủ hóa trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Tổ chức và hoạt động việc nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý, xã hội.

2. Thông tin cho nhân dân về mọi vấn đề trên tất cả các lĩnh vực của xã hội, nhất là những vấn đề có tính chất cấp thiết.

3. Tác động lên các thiết chế xã hội và đề suất phương án hành động.

4. Hình thành dư luận xã hội về một vấn đề nào đó, từ đó nhằm thúc đẩy hoặc hạn chế sự phát triển của thực tế ấy.

5. Xây dựng lòng tin, thế giới quan và Ý thức công chúng.

6. Điều chỉnh hành vi của các cá nhân trong xã hội và làm tăng cường tính tích cực chính trị của công chúng.

 

*Các giai đoạn của sự hình thành dư luận xã hội dưới tác động của các phương tiện truyền thông đại chúng diễn ra qua các bước sau:

1. Công chúng làm quen với vấn đề được các phương tiện truyền thông đại chúng gợi ý hoặc đề suất.

2. Kích thích lợi ích xã hội về vấn đề đó (Thường là bằng cách đăng bài của các chuyên gia am hiểu và trình bày các quan điểm khác nhau trong cách nhìn nhận, đánh giá, từ đó tạo nên cơ sở cho việc tranh luận).

3. Tiến hành tranh luận trên phạm vi đại chúng.

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn